Ý nghĩa pháp danh - Chùa Vinh Phúc

Hoằng Dương Chánh Pháp - Trưởng Dưỡng Đạo Tâm - Phụng Sự Nhân Sinh - Hành Bồ Tát Đạo

test banner

Post Top Ad

test banner

Thứ Bảy, 16 tháng 2, 2019

Ý nghĩa pháp danh

Theo truyền thống Phật giáo Việt Nam, mỗi khi một tín đồ phát tâm quy y Tam Bảo để chính thức trở thành một đệ tử của Đức Phật, vị Bổn Sư sẽ cho một tên mới gồm hai (2) chữ gọi là pháp danh sau khi thọ giới.

Pháp danh của người phật tử tại gia không có chữ Thích đi trước, mà chỉ có những chữ như Cư sĩ, Đạo hữu, Tín nữ, Phật tử…ở phía trước mà thôi. Ngoài ra tín đồ Phật giáo cũng được đặt pháp danh sau khi qua đời để xử dụng trong lúc cung hành tang lễ nếu như khi còn tại thế chưa quy y.
Một người sau khi quy y Tam bảo sẽ chính thức trở thành người phật tử, theo đó sẽ có một pháp danh cho riêng mình do thầy bổn sư 5 giới truyền trao
Pháp danh gồm hai (2) chữ: Chữ đầu chỉ sự liên hệ đến thế hệ trong môn phái theo bài kệ của Ngài Tổ môn phái đó. Chữ thứ hai là do vị Bổn Sư chọn lựa dựa trên ý nghĩa của tên người đệ tử (thế danh) để tạo thành một chữ kép mang ý nghĩa hay, đẹp và có tính khuyến tu. Ví dụ: Người đệ tử tên Mỹ, quy y với vị Bổn Sư có Pháp danh chữ trước là TÂM ( thượng Tâm) sẽ có Pháp danh chữ trước là Nguyên; chữ sau có thể là Mãn. Tức là Nguyên Mãn: chữ Nguyên theo thứ tự thế hệ trong bài kệ của Ngài Tổ Liễu Quán, còn chữ Mãn là theo tên của người đệ tử là Mỹ, tạo thành một chữ kép có nghĩa tu hành được tốt đẹp (Mỹ Mãn). Đôi khi tên người đệ tử đã mang sẵn chữ có ý nghĩa đạo và ý nghĩa phù hợp với chữ trong bài kệ, vị Bổn sư để nguyên và không cần thay đổi, hoặc tên không thể tìm được chữ ghép thì có thể lấy chữ trong tên của các vị La Hán, Bồ Tát v.v… để tạo thành Pháp danh. Các Ngài bổn Sư trước đây thường lấy chữ trong cuốn Kim Quang Minh Tam Tự để đặt pháp danh cho đệ tử.
Phật giáo Việt Nam hiện nay đều xuất từ Thiền Tông và đa số thuộc dòng Tào Động (miền Bắc), Lâm Tế (miền Trung và miền Nam). Các Long vị của các Ngài Tổ đều ghi Lâm Tế, nhưng pháp tu lại kiêm cả Tịnh và Mật Tông. Ví dụ, ở Huế hiện ít nhất cũng đang truyền thừa theo ba (3) bài kệ của từng vị Tổ môn phái xuất kệ nhưng đều thuộc dòng Lâm Tế.
1. Bài kệ của Ngài Thiền Sư Vạn Phong Thời Uỷ ( Môn phái Hải Đức, Huế. Môn phái Thập Tháp Di Đà, Bình Định, đều dùng bài kệ này:
Âm Hán Việt Chữ Hán
Tổ Đạo Giới Định Tông
Phương Quảng Chứng Viên Thông
Hạnh Siêu Minh Thật Tế
Liễu Đạt Ngộ Chơn Không
Như Nhật Quang Thường Chiếu
Phổ Châu Lợi Ích Đồng
Tín Hương Sanh Phước Huệ
Tương Kế Chấn Từ Phong 
祖導戒定宗
方廣證圓通
行超明寔際
了達悟真空
如日光常照
普周利人天
信香生福慧
相繼振慈風
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở khoảng chữ CHƠN.
2. Đa số các chùa khác thuộc môn phái Ngài Liễu Quán và dùng bài kệ sau:
Âm Hán Việt Chữ Hán
Thật Tế Đại Đạo
Tánh Hải Thanh Trừng
Tâm Nguyên Quảng Nhuận
Đức Bổn Từ Phong
Giới Định Phước Huệ
Thể Dụng Viên Thông
Vĩnh Siêu Trí Quả
Mật Khế Thành Công
Truyền Trì Diệu Lý
Diễn Sướng Chánh Tông
Hạnh Giải Tương Ưng
Đạt Ngộ Chơn Không
  實際大導
  性海清澄
  心源廣潤
  德本慈風
  戒定福慧
  體用圓通
  永超智果
  密契成功
  傳持妙里
  演暢正宗
  行解相應
  達悟真空
 Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ TRỪNG.
Hai dòng nầy phát triển rất mạnh ở miền Trung và miền Nam.
3. Ngoài ra ở Huế có môn phái chùa Quốc Ân do Tổ Nguyên Thiều lập lại dùng bài kệ của Ngài Đạo Mân đời thứ 31 như sau:
Âm Hán Việt Chữ Hán
Đạo Bổn Nguyên Thành Phật Tổ Tiên
Minh Như Hồng Nhật Lệ Trung Thiên
Linh Nguyên Quảng Nhuận Từ Phong Phổ
Chiếu Thế Chơn Đăng Vạn Cổ Huyền
    導本原成佛祖先
    明如紅日麗中天
    靈源廣潤慈風溥
    照世真燈萬古懸
Quý Thầy thế hệ cao nhất trong môn phái nầy đang ở chữ LỆ.
4. Riêng ở Quảng Nam Đà Nẳng có môn phái chùa Chúc Thánh thuộc Ngài Minh Hải Pháp Bảo đã biệt xuất bài kệ khác như sau:
Âm Hán Việt Chữ Hán
Minh Thật Pháp Toàn Chương
Ấn Chơn Như Thị Đồng
Chúc Thánh Thọ Thiên Cửu
Kỳ Quốc Tộ Địa Trường
Đắc Chánh Luật Vi Tuyên
Tổ Đạo Hạnh Giải Thông
Giác Hoa Bồ Đề Thọ
Sung Mãn Nhơn Thiên Trung
    明寔法全章
    印真如是同
    祝聖壽天久
    祈國祚地長
    得正律為宣
    祖導行解通
    覺花菩提樹
    充滿人天中
5. Ngoài ra còn những bài kệ khác như của Ngài Trí Thắng Bích Dung đời thứ 41 biệt xuất như sau:
Âm Hán Việt Chữ Hán
Trí Huệ Thanh Tịnh
Đạo Đức Viên Minh
Chơn Như Tánh hải
Tịch Chiếu Phổ Thông
Tâm Nguyên Quảng Tục
Bổn Giác Xương Long
Năng Nhơn Thánh Quả
Thường Diễn Khoan Hoằng
Duy Truyền Pháp ấn
Chánh Ngộ Hội Dung
Không Trì Giới Hạnh
Vĩnh Kế Tổ Tông
    智慧清淨
    道德圓明
    真如性海
    寂照普通
    心源廣續
    本覺昌隆
    能仁聖果
    常演寬宏
    惟傳法印
    正悟會容
    空持戒行
    永繼祖宗​​​​​
6. Ngài Minh Hành Tại Toại ở miền Bắc cũng biệt xuất bài kệ:
Âm Hán Việt Chữ Hán
​​​​​​​Minh Chơn Như bảo Hải
Kim Tường Phổ Chiếu Thông
Chí Đạo Thành Chánh Quả
Giác Ngộ Chứng Chơn Thường
    明真如寶海
    金祥普照通
    至導成正果
    覺悟證真空
7. Ngài Tri Giáo Nhất Cú tông Tào Động cũng xuất bài kệ:
Âm Hán Việt Chữ Hán
​​​​​​​Tịnh Trí Viên Thông Tông Từ Tánh
Khoan Giác Đạo Sanh Thị Chánh Tâm
Mật Hạnh Nhân Đức Xưng Lương Huệ
Đăng Phổ Chiếu Hoằng Pháp Vĩnh Trường
    淨智圓通宗慈性
    寬覺道生是正心
    密行仁德稱良慧
    燈普照宏法永長
Ba bài kệ sau cùng, người viết chưa đủ duyên để được gặp quý Thầy thuộc các môn phái đó nên không biết những chi tiết khác.
Ngoài ra trong thời gian gần đây, về phía nữ Phật tử cũng có một số được đặt pháp danh mang chữ Diệu, Minh như Phật giáo Nhật Bản, Trung Quốc v.v… Trên đây là những điều mà cá nhân người viết đã may mắn được sự chỉ dẫn và giải thích của Quý Thầy trong thời gian học hỏi và phụ giúp về nghi Lễ.
Ngoài ra, trong nghi lễ pháp danh chỉ được dùng trong Sớ để tác bạch lên chư Phật và Bồ Tát mà thôi, còn các việc khác bậc xuất gia đã có Pháp tự, Pháp hiệu; tại gia có tự, hiệu…
test banner