Cốt lõi của giáo lý Phật Đà trong suốt 49 năm hoằng pháp của Ngài là giúp chúng sinhthoát khổ và giải thoát mà không cần trông đợi vào bất cứ tha lực nào bởi vì Phật giáo là tín ngưỡng tự lực.
Bất cứ ai sinh ra trong thế gian này đều nghĩ rằng trong ta phải có một cái linh thiêng, làm chủ mạng sống của mình và gọi đó là “Cái Tôi” tức là bản Ngã. Từ đó những vật sở hữucủa họ thì gọi là “Cái Của Tôi”. Khi cảm tính về “Cái Tôi” hiện lên thì tính ích kỷ, tính tư lợi hay là tự xem ta là trung tâm (self-centered) cũng bắt đầu bùng phát. Ta thì lo ích kỷ cho riêng ta, người thì lo ích kỷ cho người vì thế con người bắt đầu tranh chấp, đố kỵ, hơn thua, lo bảo vệ Cái Tôi và những cái thuộc về Tôi. Cảm tính về Cái Tôi và Cái Của Tôi được xem là sự bám víu, chấp thủ một khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần và nỗi khổ niềm đau cũng bắt đầu phát sinh từ đó.
Ngã chấp phát triển như thế nào?
Hệ thống não bộ của một hài nhi thật ra đã bắt đầu hoạt động từ trong bụng mẹ, nhưng đưa bé chỉ bám vúi vào “Cái Tôi” của nó tức là sự sinh ra Tự Ngã chỉ xảy đến sau khi đứa bé này ra đời và có cơ hội tiếp xúc với ngoại cảnh chung quanh. Từ đó các giác quan (mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ý) hoạt động một cách hữu hiệu và trọn vẹn giúp cho tâm thức nó ý thức được Cái Tôi của chính nó.
Khi đứa bé mới sinh ra đời thì chưa có cảm tính về một “Cái Tôi” riêng biệt trong tâm thức của nó. Dần theo môi trường sống lớn lên, đứa bé được cha mẹ, những người thân chung quanh nhét vào trong tâm thức những ý niệm về Cái Của Tôi. Đây là cha mẹ của nó, thức ăn của nó, cái giường ngủ của nó, đồ chơi của nó, cái phòng của nó, cái chén cái ly này là của nó, anh chịem của nó….Vì là của nó nên nó phải bảo vệ giữ gìn Cái Của Nó từ đó tâm thức bắt đầu phát triển những ý niệm ích kỷ hẹp hòi. Cái Tôi ấy mỗi ngày tiếp tục biến đổi và sinh trưởng dưới tác động của những điều mà nó học hỏi mới và các kinh nghiệm mới trong cuộc sống và trong tâm thức của nó lúc nào cũng có Cái Tôi mới khác hẳn với Cái Tôi trước đó. Nói chung Cái Tôi thay đổi từ lúc còn bé thơ, dần đến trưởng thành và sau cùng là đến lúc mạng chung. Mỗi thời điểm trong cuộc đời có một Cái Tôi khác biệt, nào là Cái Tôi lúc còn đi học, Cái Tôi bước vào ngưỡng cửa cuộc đời, Cái Tôi của những cặp nhân tình, Cái Tôi của những đấng cha mẹ, Cái Tôi của những người lớn tuổi và cuối cùng Cái Tôi của người sắp hấp hối. Nói chung, Cái Tôi đang tuần tự biến dạng trong kiếp sống này qua những thể dạng khác nhau từ trẻ thơ, đến trưởng thành, rồi già nua và sau cùng nhờ vào cái chết để trở thành Cái Tôi của một đứa bé khác dưới một cái tên gọi khác, vào trong một gia đình khác, một dòng họ khác, một quê hương khác, một tôn giáokhác và dĩ nhiên nó mang theo bao nhiêu kinh nghiệm, ký ức, kiến thức từ kiếp trước dưới hình thức những vết hằn ghi đậm trên dòng tri thức liên tục của nó. Nếu thật sự có Tự Ngã thì chỉ có một Cái Tôi duy nhất thế mà dần trôi theo thời gian, Cái Tôi cứ tiếp tục thay đổi, biến dạng tùy theo hoàn cảnh và môi trường sống cho nên có biết bao Cái Tôi hiện ra trong cuộc đời vì thế không có cái gì thật sự là Tự Ngã hay Cái Tôi cả.
Vô Ngã là bài pháp thứ nhì sau khi Đức Phật thuyết giảng chân lý Tứ Diệu Đế cho nhóm ông Kiều Trần Như. Trong đó, Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả mọi hiện tượng trong thế gian này đều không ngừng tác tạo. Vì là do nhân duyên, nhân này quả nọ, mà thành chớ không có một vật thể nào tự chúng có được nên tất cả mọi hiện tượng đó không có thực thể, không có tự tánhtức là Vô Ngã. Con người chúng ta cũng thế, không có cái gì gọi là Cái Tôi hay Cái Của Tôi tức là Vô Ngã. Đức Phật gọi Cái Tôi chỉ là một ảo giác do tâm thức biến hiện. Sự sai lầm là con người luôn đồng hóa ngũ uẩn (thân, tâm) là Tôi cho nên họ luôn bám chặt vào nó như là một cá thể vững bền. Sự bám vúi đó chính là nguyên nhân đem lại biết bao nỗi khổ đau trong kiếp sống này và mãi mãi về sau.
Nếu bạn nhìn đời không qua lăng kính của những cảm tính về Cái Tôi hay Cái Của Tôi thì sự thấy biết đó sẽ trong sáng, chân thật hơn. Thí dụ muốn nhận xét về ông A hay bà B thì hãy nhận xét một cách khách quan, chân thật, công bình chớ đừng cộng thêm cảm tính cho rằng đó là người thân của Ta, người đó thuộc phe Ta, hay kẻ thù của Ta… mà bóp méo sự thật, đi ngược với công lý.
Con người cố bám víu vào Cái Tôi và Cái Của Tôi dưới đủ mọi hình thức và họ quan niệm rằng Cái Tôi chính là sự sống trong cuộc đời. Nhưng trên thực tế, mỗi khi xảy ra sự nắm bắt và bám víu vào bất cứ hiện tượng gì trên thế gian từ vật chất đến tinh thần, kể cả những thứ tốt đẹp nhất thì tức khắc nó sẽ sinh ra phiền não khổ đau.
Thí dụ nếu xem thân xác này là Của Tôi thì chắc chắn chúng ta phải trau chuốt, chưng diện, phấn son, trang sức lấp lánh, áo lụa quần là, tạo công danh phú quý cho Cái Tôi hưởng, mua nhà to đắt tiền cho Cái Tôi ở, mua cao lương mỹ vị cho Cái Tôi dùng, tranh công đoạt chức cho Cái Tôi hãnh diện. Xa hơn nữa có người cắt bớt chỗ này, độn thêm chỗ kia cho cái thân thể Của Tôi thêm hấp dẫn, rực rỡ huy hoàng…Nhưng thân này thực sự nó là Của Ta chăng? Nếu nó là Của Ta thì Ta phải làm chủ nó. Ta bảo nó đừng già, đừng bệnh, đừng chết…nó có nghe không? Nếu là Của Ta thì tại sao Ta không mang nó theo khi chết mà tứ đại trở về với cát bụi?
Tệ hại hơn nữa, nếu bây giờ nghĩ rằng tâm thức là Của Ta thì sự ích kỷ sẽ bùng lên, hận thù dấy khởi, tự ái dày vò, tham lam xúi dục, trong tâm dấy lên bao nhiêu hy vọng, ước mơ, mưu mô, tiếc nuối, thương yêu, ghét bỏ…từ đó phát sinh biết bao ảo giác và tưởng tượng không thiết thực và đây chính là đầu dây mối nhợ cho biết bao sự lo âu, phiền muộn và tranh chấp trong cuộc đời.
Dựa theo tinh thần Phật giáo, không có gì trên thế gian là Cái Tôi hay Cái Của Tôi cả. Tất cả chỉ là do nhân duyên tác tạo. Vợ chồng là do duyên nợ mà thành. Hai người đã có nợ nần từ tiền kiếp, bây giờ có đủ duyên gặp lại nhau thì kết thành vợ chồng trở lại để trả hết những nợ nầnkiếp trước và dĩ nhiên tiếp tục tái tạo nợ nần cho mai sau. Nếu không có nợ mà chỉ có duyên thì họ chỉ yêu nhau qua một giai đoạn rồi gặp trắc trở và cuối cùng cũng phải chia tay. Tình yêu bên ngoài có thể che phủ bằng những bông hoa tươi thắm, nhưng thật ra bên trong nó được che lấpbằng những bản chất ích kỷ và hưởng thụ của con người. Chính bản năng hưởng thụ đã thúc đẩy trai gái tìm đến với nhau và cũng chính cái bản năng ích kỷ đó (Cái Của Tôi) đã thúc đây họ làm khổ cho nhau. Do đó nếu con người biết đem tình thương chân chính của sự hy sinh, độ lượng và vị tha vào trong cuộc sống thì tình yêu đó sẽ không còn đậm màu sắc ảm đạm của bản năng ích kỷ. Thông thường, do lòng đố kỵ và ích kỷ, chúng ta ít chịu chấp nhận cái hay của người khác vì người khác nổi bật sẽ làm chúng ta bị lu mờ. Chúng ta thờ ơ trước những ưu điểmcủa kẻ khác và vui mừng khi tìm thấy khuyết điểm của người vì người lu mờ thì ta sẽ nổi bật. Do tâm vị kỷ chúng ta dễ dàng rơi vào cạm bẩy “tán kỷ, hủy tha”, tức là khen mình, chê người. Đây là cội nguồn phát sinh ra phiền não và tạo nghiệp cũng tại vì cái ngã mạn mà thôi. Phải đổi tính vị kỷ nầy bằng tinh thần vị tha thì cuộc sống sẽ an vui tự tại. Thấy người giỏi thì khen, thấy người giàu thì mừng, thấy người khổ thì giúp. Thực hành như vậy thì phiền não không còn và những nguyên nhân gây ra phiền não cũng chấm dứt.
Đức Phật sinh ra trong cung vàng điện ngọc nhưng Ngài thấy rằng những nỗi khổ lúc nào cũng tiềm ẩn phía sau tuổi trẻ, sức khỏe và đời sống của tất cả mọi chúng sinh. Nỗi khổ là hiện tượngvô hình, nhưng nó lại tác động không kém gì những nhát đao, những thanh kiếm xuyên suốt vào tâm của con người. Cái đau đớn trong tâm hồn nhất thiết không thương sót một ai. Người giàu sang phú quý cưu mang nỗi khổ của người giàu, kẻ nghèo khó cũng phải gánh chịu những nỗi bất hạnh đau đớn dành riêng cho họ. Ông hoàng bà chúa có những nỗi khổ niềm đau theo lối vua chúa, ngược lại kẻ bần cùng cũng có cái đau cái đớn chẳng khác gì. Nhưng tại sao chúng sinh lại phải khổ?
Trong bộ Trường A Hàm (Dĩgha Nikàya) Đức Phật dạy rằng:
-Ái dục bắt nguồn từ đâu và phát sanh ở đâu? Nơi nào có thỏa thích và dục lạc, nơi đó có ái dục bắt nguồn và phát sanh. Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp có thỏa thích và dục lạc. Vậy ái dục bắt nguồn từ đó và phát sanh ở đó.
Con người vì bị vô minh che lấp nên không nhìn thấy biết đúng và từ đó ái dục có cơ hội phát sinh rồi chấp thủ, khư khư bám chặt lấy “Cái Tôi” và những cái gì gọi là “Cái Của Tôi”. Thí dụ bất cứ ai cũng có thể xây dựng một ngôi nhà, bằng gỗ, bằng gạch hay bằng xi măng cốt sắt, nhưng Đức Phật dạy rằng loại nhà ấy không phải thật sự là “Cái Của Tôi” mà chỉ là của ta trên danh nghĩa, theo quy ước, trong khái niệm. Nó là một hiện tượng mà chúng ta gọi cái nhà trong thế gian vậy thôi. Còn ngôi nhà thật sự của chúng ta là trạng thái an tĩnh trong tâm thức. Một cái nhà vật chất ở ngoại cảnh có thể thật đẹp, nguy nga tráng lệ, nhưng nó chính là nguyên nhân tạo từ lo âu này đến lo âu khác, băn khoăn từ lo nọ đến áy náy buồn phiền kia. Vì nó ở ngoài ta tức là vật ngoại thân nên sớm muộn gì rồi ta cũng phải bỏ lại cho nên càng bám víu vào nó thì càng khó dứt bỏ tức là càng khổ đau thêm. Nó không phải là nơi chốn mà ta có thể sống vĩnh viễntrong đó, bởi vì nó không thật sự thuộc về ta mà là một phần của thế gian. Do đó ái dục làm động cơ thúc đẩy con người đưa đến hành động tạo nghiệp bất thiện bằng chính thân, khẩu hay ý của ta. Chính ái dục, nằm trong phạm vi ảnh hưởng của vô minh, sai khiến con người luyến ái, đeo níu, bám chặt vào đời sống và lòng ham muốn khát khao ấy lôi cuốn con người lặn hụp triền miên trôi nổi từ kiếp sống này đến kiếp khác. Do đó có sống là có khổ.
Nói chung khổ là trạng thái không thỏa mãn, bất toại nguyện làm cho con người khó chịu. Hạnh phúc mà con người đeo đuổi cũng không thể tồn tại vì những điều kiện tạo duyên cho nó phát sinh luôn biến đổi vì thế không có hạnh phúc nào thật sự vững bền cả. Những điều mà chúng sinh mong muốn chỉ tồn tại nhất thời và những đối tượng mà con người khao khát mong mỏichẳng qua chỉ là phù du tạm bợ, có đó rồi rồi mất đó chẳng khác nào như ôm giữ một cái bóng, như nắm bắt một làn hương.
Thêm nữa, dựa theo thuyết “Nghiệp cảm duyên khởi” của đạo Phật thì tất cả những chủng tửthiện, ác chẳng những từ đời này mà còn bao nhiêu đời quá khứ phát xuất từ ý nghĩ, lời nói và hành động của con người đều được lưu giữ trong A lại da thức (nhân). Khi hội đủ duyên thì chủng tử thiện, ác đó sẽ biến thành quả và đây là những kết quả khổ, vui mà con người thọ báotrong đời này và cho những đời kế tiếp. Thí dụ mảnh vườn phía sau nhà, chúng ta gieo nhiều loại hạt giống (chủng tử) khác nhau (nhân). Vì chúng nằm dười lòng đất nên mắt thường không thấy được cho nên có lúc chúng ta nghĩ rằng những hạt giống đó không còn hay đã chết. Sau nhiều trận mưa rào và trời ấm áp (duyên) thì chúng bắt đầu nẩy mầm (quả). Điều quan trọng nhất là giống nào nẩy mầm theo giống nấy, không bao giờ lộn lạo. Thí dụ giống cây cải thì sinh ra cây cải, giống ớt thì sinh ra cây ớt…Tuyệt đối không bao giờ có chuyện trồng ngò mà thành cây ớt được nghĩa là nhân thiện thì thọ lãnh quả lành, ngược lại nhân ác thì chắc chắn sẽ thọ lãnh quã dữ. Vì thế, nếu con người biết huân tập nhiều hạt giống thiện thì những chủng tử lành đó có công năng dẫn dắt họ tái sinh vào những cảnh giới an lành để tiếp tục hưởng những quả báo tốt đẹp. Ngược lại thì phải thọ báo vào cảnh giới khổ não, đau thương. Nghiệp là hành động lập đi lập lại nhiều lần rồi thành thói quen tức là tập khí. Chính cái thói quen, hay tập khí này có sức mạnh phi thường mà Phật giáo gọi là nghiệp lực để tùy duyên, chiêu cảm đến môi trường thích hợp mà thọ sinh, nên gọi là nghiệp cảm. Tuy nhiên, đạo Phật là đạo chuyển nghiệp nghĩa là trong quá khứ cho dù con người vì sống trong vô minh bất giác tạo nên bao nhiêu tội nghiệp(nhân). Nhưng nếu bây giờ biết thức tĩnh, dừng lại, tu tâm dưỡng tánh, tránh xa ác nghiệp, tạo nhiều thiện nghiệp thì những ác nhân đó không có cơ hội tác tạo với ác nghiệp để gây ra cảnh khổ cho mình. Nhân (Cause) mà không có duyên (Conditions) thì tuyệt đối không bao giờ thành quả (Effect). Cũng như gạo (nhân) mà không có nước, không nấu (duyên) thì không bao giờ thành cơm được (quả).
Toàn bộ giáo lý Phật Đà dựa trên thuyết nhân quả và không bao giờ ra ngoài thuyết nhân quảnghĩa là mình gieo nhân bao nhiêu thì chính mình sẽ gặt hái bấy nhiêu kết quả. Vì vậy, nếu chúng sinh hiện đang sống khỏe mạnh, làm ăn phát đạt, gia đình hạnh phúc ấm no, con cái nên người, trên thuận dưới hòa là họ đang thọ hưởng “KẾT QUẢ” của phước báo do chính họ tạo tác chớ không phải do Phật trời ban phát và chắc chắn không phải do cầu nguyện mà có được.
Ngược lại, nếu chúng sinh hiện đang gặp nghịch cảnh, luôn đối diện với phiền não khổ đau trái ý nghịch lòng thì họ đang gánh chịu “HẬU QUẢ” của nghiệp báo do chính họ tạo tác chớ không do Phật trời giáng họa cho và dĩ nhiên cũng không do cầu nguyện mà tránh khỏi được. Một khi đã hiểu thấu đáo sự công bình của luật nhân quả, chúng sinh sẽ mạnh dạn hơn, can đảm hơn, dám nhận lãnh “hậu quả” do chính mình tạo tác hay an nhiên thọ hưởng “kết quả” tốt lành cũng do chính mình tác tạo mà không còn than trời oán Phật nữa. Nhân quả cần thời gian để tác dụngmà nhà Phật gọi là “dị thời, dị thục” nghĩa là một người tuy làm rất nhiều điều thiện, nhưng hiện tại có thể gặp nhiều nghịch duyên bởi vì những chướng duyên đó là do những đời quá khứchuyển đến nên nó trở thành “hiện hành”. Còn những việc thiện đang làm mới là những “chủng tử” nên chưa có cơ hội (duyên) tức là phải cần thời gian để trở thành hiện hành. Cũng như vào mùa xuân chúng ta gieo rất nhiều hạt cải, hạt đậu…nhưng cần đến vài tuần, có khi cả tháng thì mới thấy chúng nẩy mầm, sinh cây, sinh cành, sinh lá. Ngày nay bạn không cần phải đợi đến kiếp sau mới thọ lãnh quả nghiệp của mình mà quả báo sẽ hiện ra ngay trong kiếp này tức là “quả báo nhãn tiền” cho nên bạn nên nhìn lại, kiểm soát thân, khẩu, ý của mình mà làm lành lánh dữ. Chẳng những chính bạn phải thọ lãnh quả báo thiện, ác đó mà con cháu của bạn cũng phải bị ảnh hưởng theo vì tất cả đều cùng chung “cộng nghiệp” tức là cùng sống trong một môi trường. Nên nhớ cha ăn mặn con khát nước là có thật.
Kinh Lăng Nghiêm (1) giải thích rất rõ ràng rằng khi Phật thọ trai thì chư Tăng không thể no được nghĩa là ai ăn người ấy no, ai tạo phước người ấy hưởng (biệt nghiệp), ai gieo nhân ác thì trước sau cũng phải thọ lãnh quả bất thiện vì thế không có vấn đề van xin cầu nguyện trong Phật giáo bởi vì Phật trời không bao giờ can dự vào chuyện ân oán nhân quả của chúng sinh mà chúng sinh phải tự mình giải quyết lấy. Ngoảnh nhìn cuộc đời như giấc mộngĐược mất bại thành bỗng hóa không.
Luật nhân quả là một định luật của thiên nhiên chớ không nhất thiết chỉ dành cho Phật giáo vì nó cũng giống như những định luật vật lý về trọng lượng và gia tốc trọng trường của Newton, định luật sức đẩy về nước của Archimedes hay định luật về lượng tử E=mc2 của nhà bác học Albert Einstein…Tuy bạn có tin, có biết, có chấp nhận hay không thì nó vẫn tồn tại, vẫn xãy ra trong mọi ứng dụng cuộc sống hằng ngày của bạn. Ngày nay hệ thống viễn thông (Google Search) đưacon người gần với nhau hơn cho nên bạn có thể nhìn thấy luật nhân quả ứng hiện cho biết bao nhiêu người trên thế giới, từ những nhà độc tài Saddam Hussein của Iraq, Muammar Gaddafi của nước Libya cho đến sự bố thí rộng lớn của nhà tỷ phú Bill Gates, Warren Buffett… nhưng quan trọng nhất là bạn hãy quay về để thể nghiệm chính bản thân, cuộc đời của mình thì sẽ thấy luật nhân quả không bao giờ sai sót cả. Thí dụ bạn trồng cây mai (nhân), hằng ngày chăm sóc vun phân bón nước (duyên) cho nên đến Tết thì cây mai nở rộ (quả). Hoặc là nếu bạn bây giờ đem bớt tiền của bố thí cho những người thiếu may mắn thì ngay vào thời điểm đó chính bạn đã có niềm vui, đã có phước báu rồi vì chính mình đã thắng được lòng tham, tính ích kỷ của mình. Nhưng quan trọng hơn là về sau bạn sẽ có nhiều phước báu chẳng những cho mình mà cho cả cho con cháu của mình. Thế thì Phước là do làm lợi ích cho người mà có còn Đức là cái tốt của tự tâm tức là con người có tâm hồn trong sáng, cao thượng. Thí dụ vụ bão Hải Yến (Typhoon Haiyan) vừa mới xãy ra ở Phi Luật Tân, có nhiều nhà giàu vì muốn cho thế giới biết đến tên tuổi của mình nên đã bố thí cho các nạn nhân để được tiếng khen, đăng báo, mua danh… Vì thâm ý của họ không tốt, chỉ có mục đích tư lợi cá nhân cho nên họ chỉ có Phước mà không có Đức. Do đó muốn có phước đức vẹn toàn thì khi làm việc lợi ích cho người đừng mong có sự đền đáp mà nhà Phật gọi là “Bố thí vô tướng, độ sanh vô ngã”. Cái tuyệt vời của cuộc sống là làm thế nào để có Phước Đức vẹn toàn nghĩa là Phước và Đức hỗ trợ cho nhau, đó là tâm có tốt thì việc làm thiện mới được chu đáo và lâu bền còn đức có sâu thì phước mới lớn. Vì thế khi làm việc thiện, bạn nên củng cố thêm chất tốt của nội tâm của mình. Ngược lại, nếu bạn làm phước mà không có đức nghĩa là làm việc thiện vì mục đích tự lợi, vị kỷ, tính toán thì chắc chắn những tư tưởng bất thiện đó sẽ biến thành lời nói hay hành động ác về sau để gây cảnh khổ cho mình. Phú quý vinh hoa như giấc mộngSắc tài danh lợi tựa phù du.
Ngày nay con người thay vì cố tìm cách thay đổi cuộc sống cho phù hợp với đạo đức nhân bảnthì họ nhắm mắt đi tìm phước báo. Giáo lý của Đức Phật rất ngắn gọn, đó là nên tránh xa các việc ác và cố gắng làm các việc lành. Khi đã thành tựu rồi thì cố gắng giữ gìn tâm ý cho được thanh tịnh là có giải thoát. Nhưng đa số người tu Phật cừ lờ đi, tuy họ cũng làm việc thiện mà không muốn buông bỏ những thói quen xấu của mình. Do đó đi tìm phước báo mà không buông bỏ tánh ác thì không bao giờ có. Tất cả hành vi thiện, ác đều do từ thân, khẩu, ý mà ra cho nên đó là nơi mà bạn phải nhìn lại mình mà nhà Phật gọi là “Phản quang tự kỷ” nghĩa là soi xét lại mình, quán chiếu lại mình, từ thân thể cho tới nội tâm, thấy rõ thân thể, nội tâm như thế nào. Trong khi đó “Hồi quang phản chiếu” có tánh cách đặc biệt dành cho bậc thượng cơ, nhất là những vị tu thiền trong Phật giáo. Nhìn xem hành vi của bạn có sai trái hay không? Chúng tahằng ngày cố gắng cực nhọc lo lau sạch nhà cửa, xe cộ, chén bát nhưng lại quên không nhìn lại sự dơ bẩn trong tâm của mình. Bởi vì không thấy chính mình, con người mới có thể làm đủ điều xấu. Khi trong tâm vừa thoáng lên một ý nghĩ xấu, họ nhìn chung quanh xem có ai nhìn thấy ý đồ đó không rồi họ mới làm. Bạn có thể lừa cả thế gian, nhưng có một điều chắc chắn là bạn không thể nào lừa lương tâm của mình được và tòa án lương tâm đó sẽ gặm nhấm, đọa đày lương tricủa bạn cho đến giây phút cuối cùng của đời mình.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét