SƠ LƯỢC NGUỒN GỐC LỊCH SỬ PHẬT GIÁO VIỆT NAM
TỪ THỜI KỲ DU NHẬP ĐẾN NAY
Thượng toạ: Thích Thiện Hạnh
Phó Viện Trưởng Phân viện nghiên cứu Phật học Việt Nam tại Hà Nội
Một trong những tôn giáo du nhập vào Việt Nam sớm nhất là Phật giáo. Khác với nhiều tư tưởng cho rằng Phật giáo Việt Nam truyền trực tiếp từ Trung Quốc, nhưng nhiều nguồn sử liệu cho thấy Phật giáoViệt Namtruyền trực tiếp từ Ấn Độ vào những năm đầu Công nguyên, rồi sau đó mới truyền qua Trung Quốc chứ không phải Phật Giáo từ Trung Quốc truyền qua Việt Nam như những sách cũ đã ghi.[1]
Căn cứ theo các di tích lịchsử đình chùa xưa, vàsử liệu để lại đời Hậu Hán, sách Lý Hoặc Luận của Mâu Tử, Đại Tạng Kinh…cho ta thấy Phật giáo Việt Nam được du nhập từ thế kỷ thứ III trước Dương lịch, và hình thành từ thế kỷ thứ I, đầu kỷ nguyên Dương lịch. Phật Giáo được truyền thẳng từ Ấn Độ sang Giao Chỉ. Lúc này, ngoài hai trung tâm Phật Giáo Lạc Dương, Bành Thành ở Trung Hoa, cũng đã hình thành trung tâm Phật Giáo Liên Lâu (Luy Lâu) tại Giao Chỉ “một chiếc nôi của Phật Giáo”. Cho đến nay, trung tâm Phật Giáo Luy Lâu vẫn là đề tài nóng bỏng khá lôi cuốn đối với người tìm hiểu Phật Giáo Việt Nam.
Theo Việt Nam Phật giáo sử luận[2]: “Đạo Phật được truyền vào Việt Nam khoảng đầu kỷ nguyên Tây lịch. Tài liệu chắc chắn cho biết rằng vào hạ bán thế kỷ thứ hai, tại nước ta đã có một trung tâm Phật giáo phồn vinh và quan trọng rồi, nhưng có thể đạo Phật đã du nhập vào nước ta trong thế kỷ đầu của kỷ nguyên”.
Nhưng trước hết, chúng ta đi vào tìm hiểu những điểm cơ bản về vấn đề con đường du nhập của Phật giáo vào nước ta, niên đại và trung tâm Phật giáo đầu tiên, sau đó sẽ lần lượt tìm hiểu các vấn đề khác để có thể hình dung và đánh giá sơ bộ tình hình Phật giáo ở nước ta trong giai đoạnđầuphát triển chođến ngày nay.
I. Đạo Phật du nhập vào Việt Nam từ thời kỳ đầu công nguyên
1. Địa lý
Nói về mặt địa lý Việt Namnằm ở bán đảo Đông Dương, là nơi có nhiều điều kiện thuận lợi cho việc giao lưu tiếp xúc với các nước trong khu vực. Ấn Độ và Trung Hoa là hai nước có nền văn minh lớn cổ xưa. Việt Nam nằm cạnh hai nước, cho nên chịu nhiều ảnh hưởng của hai nền văn minh này.
Theo như nhiều sách sử để lại, Năm 273 vua Asoka lên ngôi ở Ấn Độ, ông đã cử nhiều phái đoàn ra nước ngoài truyền đạo đến các nước phương Tây, phương Đông cũng như các nước Đông Nam Á. Đã mở đầu cho sự du nhập Phật giáo vào nước ta. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng thành Nê Lê nơi có bảo tháp của Asoka là nơi tiếp nhận đầu tiên. Như vậy Phật giáo vào nước ta khoảng cuối thế kỉ III đầu thế kỷ II tr.CN.
Một vấn đề cần được nhắc đến đầu tiên là trước khi Phật giáo du nhập nước ta, tại đây đã có một nền văn hóa phong phú. Căn bản của nền văn hóa này xây dựng trên cơ sở của nền văn minh nông nghiệp với các thành tựu rực rỡ, mà cụ thể là ngoài những chứng tích của các nền văn minh còn lại, như vào thời Hai Bà Trưng, tại nước ta đã có bộ Việt luật, trong đó hơn 10 điều khác với Hán luật[3], những dấu tích về ngôn ngữ Việt qua bài Việt ca còn sót lại trong thư tịch cổ Trung Quốc[4], có hệ thống lịch pháp riêng, hoàn toàn khác với lịch pháp phương Bắc[5], những tín ngưỡng đặc thù cổ xưa còn lưu lại trong tín ngưỡng Phật điện đến tận ngày nay, và đặc biệt là nền văn hóa này có sức mạnh tiếp thu và đã chủ động bản địa hóa Phật giáo, một yếu tố văn hóa nước ngoài, để phù hợp với nó; và hơn thế nữa, biến nó trở thành một trong những vũ khí sắc bén và uy vũ đối kháng âm mưu đồng hóa và nô dịch về văn hóa của phương Bắc ngay từ những ngày đầu.
2. Quátrình du nhập và phát triển
Đạo Phật từ Ấn Độ truyền vào nước ta bằng hai con đường thủy và đường bộ, thời gian này Ấn Độ có sự giao thương sang Á châu theo gió mùa Tây-Nam mang theo tư tưởng Phật giáo đến Việt Nam; các thương nhân cùng Tăng sĩ theo đoàn để cầu nguyện trong những chuyến vượt biển đầy nguy hiểm, họ đến dù không phải là mục đích truyền đạo, nhưng sự có mặt của họ thông qua hoạt động tín ngưỡng của người Phật tử hàng ngày như cầu siêu, cầu an khi gặp nạn v.v... đã ảnh hưởng đến đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc ta. Nổi bật là Đức Quán Thế Âm, Đức Nhiên Đăng... xuất hiện đầu tiên Phật giáo tại Việt Nam.
Sự du nhập của Phật giáo vào nước ta ở những bước căn bản đầu tiên thật ra không phải xuất phát từ Trung Hoa, mà chính là được truyền vào trực tiếp từ Ấn Độ. Dựa trên những chứng liệu lịch sử đáng tin cậy, một số nhà nghiên cứu chuyên sâu, có uy tín về Phật giáo đã khẳng định điều này[6].
Những tài liệu và hiện vật mà khảo cổ học Việt Nam phát hiện được đã chứng tỏ rằng, người Văn Lang, Âu Lạc thời xưa có nền văn hóa phát triển phong phú, rực rỡ, “biểu hiện bằng các món dụng cụ, trang sức, trống đồng, thạp đồng, mũi tên đồng, thành quách, v.v. mà người Việt Nam hiện đại rất tự hào”[7]. Tuy nhiên, năm 179 TCN, Âu Lạc rơi vào ách đô hộ của nhà Triệu, mở đầu một thời kỳ đen tối kéo dài hơn một nghìn năm đầy đau thương tủi nhục trong lịch sử nước ta, thường gọi là thời kỳ Bắc thuộc[8]. Sau khi chiếm được nước ta, Triệu Đà chia Âu Lạc thành hai quận là Giao Chỉ, Cửu Chân và sát nhập vào nước Nam Việt.
Đạo Phật xuất hiện ở Việt Nam từ xa xưa trong các truyền thuyết và cổ tích. Lĩnh Nam Chích Quái (viết vào thời Trần và hiệu chỉnh thời Lê)có chép truyện Chử Đồng tử và Man Nương, trong đó Chử Đồng Tử, sống vào thời Hùng Vương được một vị tăng là Ngưỡng Quang truyền phép, còn Man Nương thì vô tình thụ thai với một vị sư từ Ấn Độ tên là Khâu Đà La vào thời Sĩ Nhiếp làm thái thú Giao Chỉ.Những vị học Phật được ghi chép đầu tiên ở Giao Chỉ phải kể đến Mâu Tử và Khương Tăng Hội.
Tại Luy Lâu (Bắc Ninh), Mâu Tử gặp được đạo Phật ở đây và chuyên tâm học Phật. Nhiều năm sau, ông viết Lý Hoặc Luận (lý giải những điều còn nghi hoặc về đạo Phật), dùng tư tưởng của mình để đối đáp với những người cho rằng ông bỏ đạo của thánh hiền (Khổng giáo, Lão giáo) để học thứ đạo của man di. Lý Hoặc Luận được xem là trước tác đầu tiên bằng chữ Hán về Phật giáo, vậy chính Mâu Tử là người học Phật ở Giao Chỉ.
3. Phật giáo vào Việt Nam thời kỳ đầu Công nguyên
Trong những năm đầu Công nguyên, Việt Nam đang ở thời kỳ Bắc thuộc[9], về tôn giáo tầng lớp trên của xã hội bắt đầu chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo, tầng lớp dưới có quan niệm về ông trời, gây phúc họa cho con người và quan niệm đa thần giáo trong tín ngưỡng dân gian.
Trong thời kỳ này còn có các tín ngưỡng bản địa của cư dân nông nghiệp lúa nước, cộng với sự tồn tại của Nho giáo, đạo Lão được Trung Quốc truyền vào, tuy nhiên các tín ngưỡng, tôn giáo đó còn có nhiều mặt khiếm khuyết đối với đời sống tâm linh cộng đồng và đạo Phật đã bổ sung vào chỗ thiếu hụt ấy. Vì vậy đạo Phật ở Việt Nam được giao thoa bởi các tín ngưỡng bản địa, cũng như ảnh hưởng bởi đạo Lão ở Việt Nam.
Năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính Nam Việt và biến Âu Lạc thành đất đai của nhà Hán. Âu Lạc bị chia thành ba quận thuộc bộ Giao Chỉ là: Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Để nô dịch nhân dân ta về tư tưởng, ngay từ thời Tây Hán, Nho giáo đã được chính quyền đô hộ truyền bá vào nước ta.
Theo Đại Việt sử ký toàn thư, vào thời kỳ đầu công nguyên, hai viên thái thú quận Giao Chỉ và Cửu Chân là Tích Quang và Nhâm Diên đã tích cực “dựng học hiệu” để dạy lễ nghĩa, tức mở trường dạy Nho học và truyền bá phong tục Hán tộc. Nho giáo vào Việt Nam chính thức từ đây và “Phong tục văn minh của đất Lĩnh Nam bắt đầu từ hai thái thú ấy”[10]. Đến thời Sĩ Nhiếp, một người gốc Hán làm thái thú Giao Chỉ thì việc học Nho ở nước ta đã tương đối phổ biến. Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Sĩ Nhiếp là người có tài kinh bang tế thế, tài năng và đức độ của ông vượt xa các thủ lĩnh chính trị của nước Hán đương thời. Hơn nữa, Sĩ Nhiếp còn là người rất thông hiểu kinh sách và tích cực truyền bá Nho giáo và Đạo giáo vào Việt Nam. Vì thế, các nhà Nho Việt Nam đời sau rất kính trọng Sĩ Nhiếp, tôn là “Sĩ vương” và xem Sĩ Nhiếp là ông tổ của nền học vấn phương Nam - “Nam giao học tổ”. Miền đất Giao Châu dưới quyền cai trị của ông là một xã hội ổn định và thịnh vượng. Vua Hán Hiến Đế thời đó đã phải ngợi khen: “Giao Châu là đất văn hiến, sông núi hun đúc, trân bảo rất nhiều, văn vật khả quan, nhân tài kiệt xuất”[11].Do vậy, ở Trung Quốc từ đời Hán đến đời Đường khi xảy ra loạn lạc nhiều người từ miền Nam Trung Quốc tìm cách di cư sang Giao Châu. Nhiều sĩ phu người Hán đến nương náu nơi đây đều được Sĩ Nhiếp khuyến khích mở trường dạy Nho học. Sử thần Ngô Sĩ Liên nhận xét: “Nước ta thông thi thư, học lễ nhạc, làm một nước văn hiến, là bắt đầu từ Sĩ Vương, công đức ấy không những chỉ ở đương thời mà còn truyền mãi đời sau, há chẳng lớn sao?[12]. Góp sức vào việc truyền bá đạo Nho còn có cả những danh nho Trung Quốc do đối lập về chính trị mà bị triều đình đày đi biệt xứ ngoài biên ải, như Ngu Phiên bị đày sang Giao Châu mở trường “dạy học không biết mỏi, môn đệ thường có đến vài trăm”[13].Tại các trung tâm châu trị, quận trị như Luy Lâu, Long Biên, Tư Phố, Cư Phong... đều có các trường để truyền bá Nho giáo và Hán học. Theo học các trường này không chỉ có con em của những người Hán cai trị và những người Hán di cư mà còn có cả con em của những người giàu có, của một số hào mục địa phương có hợp tác với chính quyền đô hộ. Trong số họ, có một số người Giao Chỉ, Cửu Chân học giỏi, đỗ đạt và được bổ làm quan ở Trung Quốc, như Trương Trọng, Lý Tiến, Lý Cầm, Bốc Long...[14]. Thậm chí, nhiều người Giao Châu du học tận kinh đô Trường An của nhà Đường. Hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục là người Cửu Chân đỗ tiến sĩ ở Trường An và được bổ làm quan ở triều đình.
Vậy trên lãnh thổ của nhà Hậu Hán, sau đó đã tồn tại ba trung tâm Phật giáo là Luy Lâu, Lạc Dương và Bành Thành. Sử liệu cổ của Trung Hoa cũng không ghi nhận được rõ ràng sự hình thành của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành, chỉ có Luy Lâu thuộc Giao Chỉ là được xác định rõ ràng và sớm nhất, và còn là bàn đạp cho việc hình thành hai trung tâm kia.
Từ nửa sau thế kỷ thứ hai, Luy Lâu đã tồn tại như một trung tâm Phật giáo quan trọng và phồn thịnh. Điều này cho thấy việc du nhập Phật giáo vào Giao Châu là rất sớm, có lẽ từ đầu công nguyên.
Theo Thiền uyển tập anh[15], một bộ sách quan trọng về các vấn đề lịch sử, tư tưởng, văn học của Phật giáo Việt Nam nói riêng và của dân tộc nói chung, thì Phật giáo được truyền vào nước ta trực tiếp từ Ấn Độ, trước cả Trung Quốc.
Những vịcao tăng đầu tiên ở Giao Chỉ được nhắc đến trong sử sách từ cuối thế kỷ II trở đi, nhưng nhiều bằng chứng cho thấy Phật giáo đã được truyền bá sang đây nhiều năm trước từ những nhà sư Ấn Độ. Sự phát triển của Phật giáo ở Giao Chỉ bắt đầu từ sớm và mạnh mẽ, tạo nên một sự ảnh hưởng văn hóa lớn đối với người dân bản địa sau này. Thực tế, vào thời Mâu Tử, Luy Lâu là một trong ba trung tâm Phật giáo lớn nhất Trung Quốc. Hai nơi còn lại là Lạc Dương và Bành Thành. Lạc Dương nổi lên là trung tâm Phật giáo trong thời Hán Minh Đế (58-75) khi ông cho một đoàn đi Ấn Độ thỉnh kinh Phật đem truyền bá vào Trung Quốc. Nhiều ý kiến cho rằng trung tâm Lạc Dương xuất phát từ trung tâm Bành Thành và trung tâm Bành Thành chịu ảnh hưởng từ Luy Lâu.
Trước đó, Phật giáo đã xuất hiện ở Trung Quốc từ trước Công nguyên nhưng vẫn còn rời rạc và nhỏ lẻ, đến thời Hán Minh Đế mới được cắm rễ thực sự. Nhiều học giả cho rằng đạo Phật trước thời Hán Minh Đế và cả sau này truyền bá sang Trung Quốc bằng đường biển, điều đó khiến cho việc Luy Lâu được tiếp xúc với Phật giáo Ấn Độ sớm hơn là điều dễ hiểu. Mâu Tử học Phật ở Luy Lâu càng chứng tỏ Luy Lâu phải có hệ thống Phật giáo phát triển từ trước đó. Trong Lý Hoặc Luận, Mâu Tử đã miêu tả về thói hư tật xấu của tăng đoàn Giao Chỉ, trong thời gian đó nhà Hán vẫn chưa có tăng đoàn, và suốt thời Hán vẫn chưa cho phép người Trung Quốc chính thức xuất gia quy y tam bảo. Mặc dù chưa có ghi chép chính thức về những người đầu tiên mang Phật giáo vào Việt Nam, nhưng sự xuất hiện của các tăng sĩ Ấn Độ vẫn được đề cập đến, trong đó nổi bật là Ma Ha Kỳ Vực và Khâu Đà La đến Giao Chỉ trong khoảng 169 -189 và Chi Cương Lương ở đây dịch kinh vàocác năm255-256. Một trong những vị tăng gốc Giao Chỉ nổi tiếng đầu tiên là Khương Tăng Hội, người vẫn còn đang tranh cãi liệu có phải là tổ của thiền tông Việt Nam hay không. Khương Tăng Hội có cha mẹ là người nước Khương Cư (Uzbekistan), đến Giao Chỉ buôn bán và sinh ra ông ở đây. Ông lớn lên và xuất gia ở Giao Chỉ, đến năm 247 thì đến kinh đô Kiến nghiệp của Ngô và truyền đạo ở đây. Khương Tăng Hội có nhiều trước tác và bản dịch về Phật giáo nổi tiếng và có giá trị đến sau này.
Căn cứ vào các tài liệu như Hậu Hán Thư trong đó có câu chuyện Sở Vương Anh theo Phật Giáo, sách Lý Hoặc Luận của Mâu tử viết tại Việt Nam vào hạ bán thế kỷ thứ hai, kinh Tứ Thập Nhị Chương và một số tài liệu khác, cho ta thấy rằng trong đời Hậu Hán (thế kỷ thứ nhất và thứ hai) ngoài hai trung tâm Phật Giáo ở Trung Hoa, còn có một trung tâm Phật Giáo rất quan trong khác ở Giao Chỉ (tức Việt Nam), lúc bấy giờ đang nội thuộc Trung Quốc.
II. Nguồn gốc Trung Tâm Luy Lâu
Trong lịch sử hình thành Phật giáo Việt Nam nói riêng và Phật giáo châu Á nói chung, Luy Lâu được coi là trung tâm Phật giáo xuất hiện sớm nhất trong ba trung tâm Phật giáo thời kỳ khởi thuỷ ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á, sớm hơn cả hai trung tâm Phật giáo khác là Trung tâm Phật giáo Lạc Dương và Bành Thành của người láng giềng Trung Quốc.
Điều đặc biệt nhất, "khai sinh" ra Trung tâm Phật giáo Luy Lâu không phải từ đất nước Trung Hoa rộng lớn, mà được bắt nguồn và mang đậm dấu ấn của Phật giáo Ấn Độ, theo con đường truyền bá của các tăng sỹ và các thương lái, nhà buôn người Ấn Độ bằng đường biển. Và quan trọng nhất, Phật giáo Việt Nam cho đến bây giờ, đó là sự hoà hợp của Phật giáo Ấn Độ với tín ngưỡng bản địa, chứ không phải là sản phẩm của 1.000 năm Bắc thuộc.
Khi đó, ở Luy Lâu có tín ngưỡng thờ thần tự nhiên, mây mưa sấm chớp. Phật giáo Ấn Độ vào Việt Nam tìm cách hoà hợp với tín ngưỡng này, nên mới sinh ra truyền thuyết về Man Nương, là nguồn gốc để có hệ thống tín ngưỡng Tứ pháp cho đến tận bây giờ… Gắn với truyền thuyết Man Nương ở vùng Dâu (Thuận Thành - Bắc Ninh), nghệ thuật và lễ hội Tứ pháp hiện vẫn thịnh hành, tuy những lễ cầu đảo hô phong hoán vũ không còn nữa.
Nhưng phải đến thế kỷ XIII-XIV mới có di tích còn để lại đến nay. Mạc Đĩnh Chi trạng nguyên thời Trần cho xây lại chùa, xây cầu chín nhịp, tháp chín tầng, nay tháp đã đổ chỉ còn ba tầng. Nguyên ủy, nơi thờ Tứ pháp chỉ là một kiến trúc mặt bằng hình vuông, chính giữa đặt Tứ pháp, hai bên có Kim đồng - Ngọc nữ. Trước mặt là hòn đá thiêng và tượng đức thánh tải (con của Tứ pháp), sau lưng là tượng sư Khâu Đà La. Khi đạo Phật đồng hoá tín ngưỡng này, ban thờ Phật được thêm ra, kiến trúc cũng giống như các chùa kiểu nội công ngoại quốc đồng bằng Bắc Bộ, ban thờ Tứ pháp đặt trước, ban thờ Phật đặt sau, gọi là tiền Thánh hậu Phật.
Cuối thế kỷ VI, Đàm Thiên khi tâu với Tùy Văn Đế về việc vua muốn độ Phật ở Giao Chỉ rằng: “Một phương Giao Châu, đường thông Thiên Trúc, Phật pháp lúc mới tới, thì Giang Đông chưa có, mà Luy Lâu lại dựng chùa hơn hai mươi ngôi, độ Tăng hơn 500 người, dịch kinh 15 quyển, vì nó có trước vậy. Vào lúc ấy, thì đã có Khâu ni danh, Ma Ha Kỳ Vực, Khương Tăng Hội, Chi Cương Lương, Mâu Bác tại đó.” Có thể thấy, Khương Tăng Hội chính là người đem Phật giáo truyền vào phía Nam Trung Quốc, trong thời kỳ Luy Lâu - Giao Chỉ đã phát triển Phật giáo rất mạnh.
Hai trung tâm ở Trung Hoa là trung tâm Lạc Dương và trung tâm Bành Thành. Lạc Dương là kinh đô Trung Hoa vào đời nhà Hán, Hiện nay là một huyện ở tỉnh Hà Nam, còn Bành Thành thì ở về hạ lưu sông Dương Tử, hiện thuộc tỉnh Giang Tô. Ở nước ta thì có trung tâm Luy Lâu: Luy Lâu là trị sở bấy giờ của Giao Chỉ, hiện nay thuộc phủ Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Cónhiều dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa”.
Nhưng điều đáng nói là một trung tâm Phật giáo ở nơi bị đô hộ được nhắc đến trong lời của một vị pháp sư Trung Quốc là Ðàm Thiên nói với vua Tùy là Tùy Cao Tổ như thế là một minh chứng về tình hình phát triển rầm rộ của Phật giáo tại nước ta ở thời điểm đó. Ðiều này thể hiện rõ hơn trong phần sau mà chúng ta sẽ tìm hiểu, qua những thành quả cụ thể của nền giáo dục Phật giáo, mà tài năng của các gương mặt Tăng sĩ, Phật tử là minh chứng tiêu biểu và thuyết phục.
Với sự ra đời của Trung tâm Luy Lâu, Phật giáo Việt Nam được xem là một trong những trung tâm Phật giáo lớn và hình thành sớm nhất tại vùng Viễn Ðông.
III. Trung tâm Luy Lâu thành lập sớm hơn trung tâm Lạc Dương và Bành
Thành
Nhìn vào bản đồ nước Trung Hoa của nhà Hán đã cho chúng ta thấy rỏ có hai con sông Dương Tử (Yangtze) và Hoàng Hà (Huang He, Yellow river). Tại đây có một trung tâm Phật giáo gọi là trung tâm Lạc Dương (Luoyang), ngày nay thuộc tỉnh Hà Nam bên Tàu, và một trung tâm khác là Bành Thành (Pengcheng), thuộc tỉnh Giang Tô ngày nay. Tại Việt Nam thì có một trung tâm tên là Luy Lâu, tọa lạc tại phía Đông Bắc Hà Nội, ngày nay thuộc tỉnh Bắc Ninh, Việt Nam.
Vào thời điểm đó Luy Lâu là một trung tâm Phật giáo rất phồn thịnh hơn hai trung tâm Bành Thành và Lạc Dương. Lý do là ở các trung tâm Lạc Dương và Bành Thành lúc đó chỉ có vài thầy, và họ toàn là người Ấn Độ. Trong khi đó thì ở Luy Lâucủachúng ta có hàng trăm thầy người Giao Châu(Giao Chỉ).
Các học giả nghiên cứu ba trung tâm Phật giáo đời Hán đều đồng ý với nhau rằng chỉ có trung tâm Luy Lâu là chúng ta biết được nguồn gốc thành lập, còn hai trung tâm kia thì không ai quyết chắc được, không ai đồng ý được với nhau là nhờ đâu mà các trung tâm đó được tạo lập. Có những chi tiết trong Hậu Hán thư, và cũng có những chi tiết trong sách Ngô chí chứng tỏ rằng trung tâm Lạc Dương là do trung tâm Bành Thành mà được tạo dựng.
Tuy vậy Lạc Dương là một trung tâm Phật giáo quan trọng vào hạ bán thế kỷ thứ Hai. Vua Hoàn-Đế (tức vị năm 165) đã thờ Phật trong cung cùng với Lão Tử. Như vậy ta biết trong thời gian đó ảnh hưởng của Phật giáo tại Trung Hoa đã khá mạnh. Thời đó, tại Lạc Dương có các vị tăng sĩ ngoại quốc cộng tác với người Hán để dịch kinh sách từ tiếng Phạn ra Hán văn. Trong số đó có An Thế Cao, một vị tăng sĩ người An tức (Parthia) cùng với một vị đồng hương khác tên là An Huyền, cùng dịch kinh với một người Hán tên là Nghiêm Phù Điều.
Theo sự nghiên cứu của các học giả Trung Hoa như Hồ Thích[16] thì con đường từ Luy Lâu đến Bành Thành có thể đi bằng đường thủy mà cũng có thể đi bằng đường bộ. Ông nói rằng có những vị tăng sĩ khởi hành từ Giao Châu đi tới Quảng Tây (tức Vũ Tây), rồi từ Quảng Tây đi tới Quảng Đông. Sau đó họ vượt đường núi để đến miền hạ lưu châu thổ sông Dương Tử, tức là đến Bành Thành.
Hậu Hán thư cũng có đoạn nhắc đến những chuyến đi này: “Quận Nhật Nam đem phẩm vật cống hiến Hán Đế bằng đường biển. Khương Tăng Hội là một vị tu sĩ dòng dõi người Khương Cư, sinh trưởng trên đất Giao Châu vào đầu thế kỷ thứ Ba, đã đi từ Giao Châu đến hạ lưu sông Dương Tử để truyền đạo”. Như vậy thì con đường mà Hồ Thích nói đến trên đây chính là con đường mà thiền sư Khương Tăng Hội đã đi để vào nước Ngô dạy đạo.
Vậy trong ba trung tâm Phật Giáo đời Hán vừa kể, trung tâm nào được thành lập sớm nhất? Hiện giời chưa có câu trả lời dứt khoát. Nhưng đứng về nguồn gốc, chỉ có trung tâm Luy Lâu tại Giao Chỉ là ta biết chắc chắn do đau mà được thành lập. Nguồn gốc của hai trung tâm Lạc Dương và Bành Thành vẫn còn rất mờ. Có nhiều dữ kiện khiến cho chúng ta nghĩ trung tâm Luy Lâu được thành lập sớm nhất, và trung tâm này đã làm bàn đạp cho sự thành lập các trung tâm Bành Thành và Lạc Dương ở Trung Hoa.
IV. Phật giáo Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử
Đạo Phật truyền bá vào Việt Nam, đến nay đã gần 3000 năm. đạo Phật đã nhanh chóng thích nghi với lối sống của người Việt. Những quan điểm trong giáo lý, giáo luật,…của Phật giáo gần với đời sống tâm linh của người Việt, với những nét văn hoá Việt.Mặt khác, nếu như Nho giáo đi vào nước ta cùng với quân xâm lược, là một yếu tố để thực hiện chính sách nô dịch, đồng hoá dân tộc ta thì Phật giáo được truyền vào Việt Nam bằng phương thức hoà bình đồng thời nó là tường thành, là động lực giúp người dân Việt chống đồng hoá. Người Việt Nam tiếp nhận Phật giáo như một tín ngưỡng hơn là một lý luận, hệ tư tưởng, nó kết hợp với các tín ngưỡng bản địa như tục thờ mẫu, thờ tổ tiên… Nó dễ đi vào đời sống của người dân cùng với khuynh hướng nhập thế của các nhà sư càng làm cho đạo Phật càng có sức sống mãnh liệt hơn.Sự kết hợp với tín ngưỡng, văn hoá bản địa đã tạo nên một sắc thái riêng của Phật giáo Việt Nam. Chính vì vậy mà Phật giáo khi đến Việt Nam đã mang những đặc điểm mới khác với Phật giáo nguyên mẫu.
Trong khoảng thời gian dài đó, do sự thay đổi của tình hình kinh tế, chính trị xã hội của đất nước, đạo Phật cũng trải qua một số bước phát triển và hình thành nên một số giai đoạn tương đối rõ rệt.
· Thứ nhất, Phật giáo Việt Nam chuyển mình ảnh hưởng Phật giáo TrungQuốc
Trong quá trình phát triển Phật giáo Việt Nam đã chuyển từảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ sang ảnh hưởng Phật giáo Trung Quốc.
Từ thế kỷ VI đến thế kỷ X Phật giáo Việt Nam tiếp nhận thêm những đoàn truyền giáo của Trung Quốc. Không bao lâu Phật giáo Bắc phương đã chiếm ưu thế và thay chỗ đứng của Phật giáo Nam phương vốn có từ trước. Đồng thời sự ảnh hưởng đó còn được thể hiện ba tông phái chính của Trung Hoa cũng được truyền vào Việt Nam đó là Thiền Tông, Mật Tông, Tịnh Độ Tông và qua một số tập tục như: tập tục đốt vàng mã, tập tục coi ngày giờ, tập tục cúng sao hạn, xin xăm, bói quẻ,… Vì thế mà Phật giáo Mật tông đã bao trùm mọi tín ngưỡng bình dân trong lòng nó tại Ấn Độ cũng như ở Giao Châu lúc bấy giờ. Riêng ở Giao Châu ta, khuynh hướng này rất phù hợp với tín ngưỡng dân gian thờ phúc thần, nhiên thần, thờ Mẫu, tín ngưỡng vật linh... đồng thời phù hợp với phong tục của người Việt nên nó trở thành một yếu tố khá quan trọng trong sinh hoạt Thiền môn[17].
· Thứ hai, Phật giáo Việt Nam phát triển theo khuynh hướng Thiền.
Trong hoàn cảnh văn hoá giao lưu phức tạp, mâu thuẫn xung đột ở thời kỳ này, Phật giáo Việt Nam ở thời kỳ này cũng phát triển theo khuynh hướng Thiền. Ở hoàn cảnh địa lý, xã hội thời Giao Châu, Mâu Tử tìm các khuynh hướng mâu thuẫn, xung đột của thời đại để có một hệ thống nhất quán về tư tưởng. Điều đó được thể hiện trong tác phẩm có giá trị lịch sử của ông là “Lý hoặc Luận”. Mâu Tử đã tìm ở Phật giáo Giao Châu lấy cái nguyên lý duy nhất cơ bản khá sâu rộng để có thể tổng hợp nhất quán ba truyền thống chính yếu trên: xã hội, thiên nhiên và tâm lý như ông đã viết: “Tuy đọc sách Ngũ Kinh của Nho giáo, ưa thích lấy làm hoà, kìa thành quả nữa. Rồi đến khi tôi coi đến triết lý ở kinh Phật, xem yếu lý của Lão Tử, giữ cái đức tính điềm đạm, nghiệm cái hành động vô vi. Bấy giờ mới ngoảnh lại nhìn sự đời khác nào đứng trên đỉnh trời cao nom xuống ngòi lạch, trèo lên ngọn núi nhìn xuống gò đống vậy. Sách Nho Ngũ Kinh cũng như 5 vị ăn, đạo Phật như 5 thứ gạo thóc. Từ khi tôi được biết đạo Phật đến nay thật như vén mây mù thấy mặt trời sáng, soi đuốc cháy vào trong nhà tối vậy”[18]. Cái tinh thần ấy Mâu Tử đã tìm thấy ở tâm linh thực nghiệm của Phật giáo thích ứng với hoàn cảnh địa lý, xã hội Giao Châu thời Sĩ Nhiếp thực đã mở đường cho Thiền học Việt Nam. Như vậy có thể nói người khởi xướng cho Thiền học Việt Nam đó chính là Mâu Tử.
Nhưng theo Nguyễn Lang trong “Việt Nam Phật giáo sử luận” lại cho Thiền học Việt Nam khởi đầu bằng Khương Tăng Hội vào đầu thế kỷ III. Các nhà nghiên cứu khẳng định rằng Thiền ở Việt Nam trở thành tông phái bắt đầu từ Tỳ Ny Đa Lưu Chi. Năm 580 Tỳ Ny Đa Lưu Chi sang Giao Châu trú tại chùa Pháp Vân giảng dạy Phật phápvàlập ra dòng Thiền đầu tiên ở chùa Dâu. Từ đó dòng Thiền bắt đầu nảy nở ở nước ta.
Sang đến thế kỷ thứ IX, Phật giáo Việt Nam còn có thêm một mối giao lưu khác là Thiền tông Trung Quốc truyền sang với dòng Thiền Vô Ngôn Thông. Thiền phái này mang đậm dấu ấn Thiền học Trung Hoa với tư tưởng chân lý ở ngay trong lòng mình, Phật tại tâm. Chân lý đó con người có thể tu chứng trực tiếp, chứ không cần nắm bắt qua ngôn ngữ, văn tự. Thiền phái Vô Ngôn Thông chủ trương bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật.
Tóm lại, Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần đã phát triển trên cơ sở của ba mối giao lưu - tiếp biến bởi có 3 nguồn du nhập:
- Phật giáo Đại thừa với khuynh hướng Thiền học từ Nam Ấn trực tiếp truyền sang bằng đường biển từ cuối thế kỷ thứ I trước công nguyên hoặc những năm đầu sau công nguyên với kinh văn hệ Bát nhã;
- Thiền tông Ấn Độ truyền sang Trung Quốc rồi đến Việt Nam với vai trò của ngài Tỳ Ni Đa Lưu Chi vào thế kỷ thứ VI với tư tưởng vô trụ, siêu việt hữu - vô;
- Thiền tông Trung Quốc truyền vào Việt Nam với vai trò của ngài Vô Ngôn Thông vào thế kỷ thứ IX với pháp môn Đốn ngộ và tư tưởng Phật tại tâm.
· Thứ ba, với đặc điểm là phân lớn người Việt Nam không biết chử nghiên
cứu kinh điển Phật giáo cho nên Phật giáo Đại Thừa phát triển và chiếm ưu thế.
Điều này được thể hiện rõ khi ta xem xét những quan điểm trong sách “Lý hoặc Luận” của Mâu Tử và trong các kinh mà Khương Tăng Hội đã dịch. “Trong bài tựa kinh “An ban thủ ý” Tăng Hội có viết: “An ban là đại thừa của chư Phật để tế độ chúng sinh…Ngoài ra ông còn dịch kinh “Tiểu phẩm bát nhã” (Bát thiên tụng bát nhã) là kinh điển căn bản và xuất hiện sớm nhất trong văn hệ Bát Nhã thuộc khuynh hướng Đại thừa.”. Phật giáo Đại thừa chủ trương tất cả chúng sinh đều có sẵn Phật tính, có khả năng giác ngộ, nhưng phải cởi mở che lấpmê vọnglà hoàn toàn giải thoát. Đến Thượng thừa Kim Cương mới lại tiến lên bước nữa mà cho rằng dục vọng tự nó không xấu, vì tự nó không có thật. Nó chỉ xấu vì không biết chân lý đại đầu. Một khi hết chấp vào cái ngã ảo hoá mà giác ngộ bản tính đại đồng thì tha nhân cũng là ngã nhân, sinh tử cũng là Niết bàn. Một số tập tục như cúng rằm, mùng một, lễ chùa và tập tục ăn chay, thờ Phật, phóng sanh và bố thí là ảnh hưởng từ Phật giáo Đại thừa.
· Thứ tư, Phật giáo khi truyền vào Việt Nam đã được tiếp xúc ngay với tín
ngưỡng bản địa.
Qua lăng kính tư tưởng yêu nước, ý thức cộng đồng mà Phật giáo cũng có sự cải biến. Phật giáo ở giai đoạn này cũng phải là người cứu dân ra khỏi lầm than khổ cực bằng cách tham gia chống hạn (Phật Mẫu Man Nương), gạt bỏ những tên quan tham lam tàn bạo (trong tư tưởng của Mâu Tử và Khương Tăng Hội) và lên án bọn phong kiến phương Bắc bằng quan điểm gieo ác thì gặpác, gieo gió sẽ gặp bão. Phật giáo ở Giao Châu lúc đầu là ông thần có phép lạ khuyến thiện trừ ác, sau đó trải qua cuộc khủng hoảng ở thế VI qua sáu bức thư, Phật tử ông thần trên mây được đưa vàovới quan điểm Phật không ngoài tâm, ngoài tâm không có Phật. Như vậy là đã thực hiện được một bước chuyển ông Phật với tư cách là một vị thần lơ lửng có phép lạ vào trong tâm của mỗi người. đức Phậtđược đồng nhất với những vị thần trong tín ngưỡng truyền thống có khả năng cứu giúp mọi người dân thoát khỏi mọi tai hoạ, hay là làm nên mây, mưa, sấm, chớp để mùa màng tốt tươi; ban cho người hiếm muộn có con (tục đi chùa cầu tự); ban lộc cho người bình dân để quanh năm làm ăn phát đạt; cứu độ cho người chết và giúp họ siêu thoát…
Ở một khía cạnh nào đó có thể nói sự chuyển biến của Phật giáo thời Bắc thuộc là từ Chủ nghĩa duy tâm khách quan đi đến Chủ nghĩa duy tâm chủ quan. Điều này phản ánh một hiện thực lịch sử là muốn đứng lên giải phóng dân tộc không thể trông chờ một lực lượng siêu nhiên bên ngoài mà phải phát huy nội lực vốn có của dân tộc, của mỗi con người. Đó là sự Việt hoá các nhân vật trong Phật giáo, là sự dung hoà giữa các tông phái,…
· Thư năm, Phật giáo bước đầu đã có sự hỗm dung với Nhó Giáo và Đạo Giáo
Trong thời kỳ Việt Nam bị phong kiến phương Bắc thống trị này, một mặt do sự cưỡng bức văn hoá, mặt khác do sự giao lưu, tiếp xúc văn hoá và do tác động của tư tưởng dung hoà.nên xu hướng tiếp thu, hội nhập các yếu tố văn hoá Hán và Ấn vào nền văn hoá bản địa đã hình thành. Đặc biệt là sự hỗn dung của các tôn giáo, giai đoạn này là mầm mống để nảy nở tinh thần Tam giáo đồng nguyên. Nho, Phật, Đạo từ phương Bắc xuống, Phật giáo từ Ấn Độ sang được tiếp nhận, dung hoà vào nền văn hoá bản địa và nhanh chóng trở thành các thành tố của văn hoá Việt Nam.Một đặc điểm trong đời sống tâm linh truyền thống của Việt Nam là sự cùng tồn tại hoà bình trong tinh thần khoan dung giữa những tín ngưỡng tôn giáo khác nhau. Trên nền tảng tín ngưỡng dân gian bản địa mang tính đa thần và phiến thần, ba tôn giáo chính đã du nhập vào Việt Nam là đạo Phật, đạo Lão và đạo Nho. Những tôn giáo này một mặt đã thay đổi để thích ứng với thực tiễn xã hội – tâm linh Việt, một mặt đã đan xen, hỗn dung vào nhau do sự xúc tác của các tín ngưỡng dân gian. Các tôn giáo ở Việt Nam vì thế mà mang tính lai ghép và đã khác nhiều so với nguyên mẫu.
Tín ngưỡng dân gian đã tiếp nhận Phật giáo ngay từ đầu công nguyên. Sau đó Phật giáo cùng tín ngưỡng truyền thống tiếp nhận Đạo giáo. Rồi tất cả cùng tiếp nhận Nho giáo để tạo nên Tam giáo đồng nguyên (ba tôn giáo có cùng nguồn gốc) và Tam giáo đồng quy (cả ba tôn giáo có cùng một mục đích). Ba tôn giáo trợ giúp lẫn nhau: Nho giáo lo tổ chức xã hội sao cho quy củ nề nếp; Đạo giáo lo thể xác con người sao cho thư thái, khoẻ mạnh; Phật giáo lo cứu khổ, lo tâm linh, kiếp sau của con người. Bởi vậy mà người dân cần đến cả ba tôn giáo, họ sử dụng kết hợp chúng theo giới tính, theo các giai đoạn trong cuộc đời một cách nhuần nhuyễn. Người Việt Nam, phụ nữ thiên về Phật, đàn ông thiên về Nho.Phật giáo thiên về xuất thế, chủ trương sống từ bi nên âm tính hơn; Nho giáo thiên về nhập thế chủ trương tham gia chính sự nên dương tính hơn. Cùng một người Việt Nam, khi trẻ trung thì học Nho để ra giúp nước, khi khổ ải trầm luân thì cầu trời khấn Phật phù hộ, khi ốm đau già yếu thì mời đạo sĩ đến trừ tà trị bệnh hoặc tập luyện dưỡng khí an thần.
· Thứ sáu, Phật giáo đã tích cực đồng hành cùng dân tộc Việt Nam trong
cuộc đấu tranh chống xăm lăng và đồng hoá.
Phật giáo đến Việt Nam khi Việt Nam mất đi nền độc lập đã được tạo dựng từ ngàn năm và nhân dân đang quằn quại đau thương dưới ách thống trị của tầng lớp cầm quyền Trung Quốc. Ở trong hoàn cảnh đó, những quan niệm của Phật giáo như từ, bi, hỷ, xả hay học thuyết Tứ ân đã góp phần phát huy và nâng cao tinh thần yêu nước và truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam.
Truyền thống tri ân và báo ân Tổ quốc đã giúp cho nhiều tăng sĩ mạnh dạn “Cởi áo cà sa khoác chiến bào”. Nhiều thế hệ Thiền sư và Phật tử vừa yêu đạo, vừa yêu nước, kháng cự lại tinh thần sùng ngoại Bắc phương Trung Quốc. Tinh thần Tứ ân của đạo Phật đã tạo ra cao trào tự cường dân tộc, toàn dân yêu nước và đoàn kết vì đại nghĩa quốc gia, nhiều lần đánh bại giặc Tống và giặc Nguyên từ phương Bắc.
Nhờ tinh thần tự cường và độc lập của Phật giáo, dân tộc Việt Nam đã tìm ra được hướng đi mới, tách rời khỏi tư tưởng Khổng giáo vốn là đặc điểm nhận thức của chủ nghĩa đô hộ Trung Quốc đối với Việt Nam. Phật giáo Việt Nam đã xoá được mặc cảm bị nô lệ Trung Quốc kéo dài mười thế kỷ, là nhờ vào tinh thần yêu nước và bình đẳng của Phật giáo. Tinh thần bình đẳng của nhà Phật khẳng định rằng nếu Trung Quốc có thiên triều và thiên tử thì Việt Nam cũng có thiên triều và thiên tử là các vị minh quân. Tư tưởng này là các yếu tốcần thiết giúp dân tộc Việt Nam giải phóng khỏi ách nô lệ Trung Hoa to lớn.
Nền chính trị độc lập và tự chủ của thời Lý - Trần, với tinh thần nhập thế của Phật giáo đã mở ra những triều đại độc lập tự chủ đầu tiên của lịch sử Việt Nam làm cho dòng chảy đồng hành với dân tộc của Phật giáo Việt Nam trở thành điểm son của văn hoá, chính trị Việt Nam.Có thể nói rằng, ngay ở giai đoạn đầu công nguyên đến thế kỷ X sau công nguyên Phật giáo đã thâm nhập vào trong tâm hồn, nếp nghĩ, lối sống của dân tộc Việt Nam và đã trở thành một phần bản sắc dân tộc. Những đặc điểm của Phật giáo càng làm trở nên độc đáo và trở thành một thành tố trong nền văn hoá Việt. Theo dòng chảy của lịch sử, tôn giáo nói chung và Phật giáo nói riêng vẫn sẽ đồng hành cùng con người trong quá trình tồn tại và phát triển.
Phật giáo sẽ giúp cho con người không quên cội nguồn, đồng thời là dùng từ, bi, hỷ, xả để đối xử với nhau dù cho xã hội có phát triển đến đâu đi nữa. Phật giáo vẫn sẽ gắn bó bền chặt với nền văn hóa, với con người Việt Nam.
· Thứ bảy, Phật giáo trong thời kỳ thế kỷ XXI.
Đứng trước thách thức và cơ hội của bước ngoặc chuyển biến toàn cầu như thế, Phật giáo thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng làm gì trước sự nhận định vượt thời gian của nhà bác học lỗi lạc người Đức ở thế kỷ XX: “Tôn giáo của tương lai sẽ là một Tôn giáo toàn cầu, vượt trên mọi thần linh, giáo điều và thần học. Tôn giáo ấy phải bao quát cả phương diện tự nhiên lẫn thiên nhiên, đặt trên căn bản của ý thức đạo lý, phát xuất từ kinh nghiệm tổng thể gồm mọi phương diện trong cái nhất thể đầy ý nghĩa. Chỉ có đạo Phật đáp ứng đủ các điều kiện ấy.”Hay câu nhận định riêng về Phật giáo Việt Nam: “Mái chùa che chở hồn dân tộc, nếp sống muôn đời của tổ tông”. Phật giáo Việt Nam đã, và đang sẽ làm gì với tinh thần thể nhập tùy duyên mà bất biến… để hóa giải cho việc phát triển nhưng thiếu tính bền vững, ở nhiều lĩnh vực: Chính trị, kinh tế và văn hóa… nhằm đáp ứng cho bước phát triển công nghiệp hóa hiện đại hóa của đất nước ở thế kỷ XXI.
Để phát huy vai trò thể nhập của Giáo hội Phật giáo Việt Nam trong thờikỳđổi mới cùng với khẩu hiệu hiện đại hóa đất nước ở thế kỷ 21 là hoàn toàn thích hợp với phương châm “Tri-túc-hành” trong đạo Phật là biết dùng các phương thức sử dụng tài năng để soi xét, tìm hiểu. Dùng lý trí để phán đoán sự vật mà không cho tình cảm xen lấn vào. Một trong bốn điểm của “Tứ nhiếp pháp” là người xuất gia hay tại gia làm tất cả mọi công việc hoằng pháp xét thấy có lợi cho bản thân và tập thể[19]. Giai đoan đổi mới và hội nhập hiện nay là một cơ hội tuyệt vời cho khái niệm “Tri hành hợp nhất” của Phật giáo. Bởi từ ngàn xưa Phật giáo có một vai trò rất quan trọng đối với các sách lược nhằm “trị quốc, an dân bình thiên hạ” thông qua tinh thần “Bi-Trí-Dũng”. Nên được làm một tu sĩ Phật giáo Việt Nam là vinh dự lớn trước truyền thống đặc thù quí giá của dân tộc.
Khi nhìn vào sự vật và hoàn cảnh theo quy luật biện chứng nhân duyên, nhân quả, từ đó các nhà kinh tế kế hoạch sẽ có khả năng tiên liệu, sắp đặt tổ chức công việc khoa học. Mối liện hệ hữu cơ giữa tính-hợp-lý-hóa về tổ chức và tinh thần “Duy Tuệ Thị Nghiệp” sẽ linh động hóa, khả năng quản trị, sản xuất, chế tạo, theo nhu cầu và khả năng thực tế con người và điều kiện của Việt Nam hiện nay.
Đây là một thực tế, chứ đừng nghĩ, để rồi sau vài năm Việt Nam tự nhiên trở thành một trong các nước phát triển! Thiết nghĩ, Tăng Ni trẻ sẽ là những “đại sứ thiện nguyện” để mang kiến thức và tri thức đến mọi tầng lớp thông qua các bài giảng bằng ngôn ngữ thế kỷ XXI nhằm cân bằng “đạo đức” cho sự phát triển với chiều sâu.
Nhìn lại trong quá khứ, vai trò của Tăng sĩ có một vị trí nhất định trong việc đóng góp ý kiến ở nhiều lĩnh vực: Giúp nhà Lý lên ngôi mà không tốn một giọt máu đào. Dời đô từ Hoa Lư về Thăng Long vực dậy một nền kinh tế sau nhiều năm chiến tranh, hay thổi vào hồn dân tộc một ý chí kiên trung để bẻ gãy ý chí ba lần xâm lược của quân Nguyên-Mông[20]. Hoặc các vị Thiền sư đã chứng đắc để lại nhục thân làm chỗ dựa tinh thần cho Tăng sĩ và Phật tử hướng thượng.
Điều đó, cho chúng ta thấy rằng các bậc tiền nhân đã ứng dụng giáo lý vào cuộc sống một cách nhuần nhuyễn! Vậy, với kinh nghiệm đó chúng ta sẽ làm gì cho công cuộc đổi mới đất nước?
V. KẾT LUÂN :
Thời kỳ Phật giáo du nhập vào Việt Nam cho thấy ở Việt Nam có vị trí thuận lợi, nơi giao tiếp giữa nền văn minh Ấn Độ và Trung Hoa.Mặc dù Phật giáo được truyền trực tiếp từ Ân Độ vào Việt Nam ở thời kỳ sơ khởi, xuyên qua các dữ kiện lịch sử của các nhân vật ở lại Việt Nam hoằng hóa, thì Phật giáo được truyền theo trục từ Ấn sang Hoa và ngược lại từ Hoa sang Ấn, mà Việt Nam thì ở chính giữa. Do đó người Việt Nam thời bấy giờ chắc chắn đã thu nhập tư tưởng Phật giáo của cả hai con đường vận chuyển tư tưởng nói trên.
Khi đạo Phật truyền vào làng xã, hòa vào văn hóa Việt Nam, thì làng xã đã là một cộng đồng quần cư, một đơn vị hành chính nhưng còn là một cộng đồng tôn giáo. Chùa làng là điểm cố kết nhân tâm, là nơi khuyên bảo người dân sống theo đạo lý Phật giáo. Phật giáo đã góp phần làm phong phú thêm văn hóa làng Việt. Hàng nghìn năm, dân ta có lúc mất nước nhưng không mất làng. Văn hóa làng - trong đó chứa nhiều "hàm lượng" văn hóa Phật giáo - vẫn tồn tại. Gắn bó với văn hóa làng, gắn bó với dân tộc Việt, đối phó với những chính sách hà khắc của ngoại xâm, các thiền sư Việt Nam đã được hun đúc ý thức về một nền độc lập dân tộc. Phật giáo đã tạo nên tầng lớp trí thức tiêu biểu, với tinh thần nhập thế, gánh vác trách nhiệm trước dân tộc trong thời kỳ đầu tiên gian nan xây nền độc lập (thế kỷ X), và họ đã hoàn thành sứ mệnh đó.
Trong Bảy giai đoạn phát triển của Phật giáo đã trình bày trên phản ánh được điều đó. Năm giai đoạn này được xây dựng cơ bản trên hai nền tảng tư tưởng, một là nền tư tưởng Phật giáo quyền năng và hai là tư tưởng tức tâm tức Phật. Hai nền tảng Phật giáo này hòa quyện với nhau, thấm sâu vào đời sống tâm linh của con người Việt Nam. Và nó gắn liền với sự phát triển của lịch sử dân tộc, lấy sứ mệnh của dân tộc làm sứ mệnh của mình. Ðó là tính nhất quán của lịch sử Phật giáo Việt Nam, được biểu hiện qua những bước chuyển mình, đáp ứng yêu cầu của từng chặng đường lịch sử cụ thể, vì lợi ích chung của dân tộc.
Sự phát triển của lịch sử là sự phát triển có ý thức,là một chặng đường đồng cam cộng khổ với dân tộc là một minh chứng cho bản chất của Phật giáo Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Đăng Thục (1998), Lịch sử tư tưởng Việt Nam tập 2, NXB thành
phố Hồ Chí Minh.
2. PGS.TS. Nguyễn Hùng Hậu (2002 - chủ biên), Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam tập 1, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
3. Việt Nam Phật Giáo Sử lược, TS Thích Nhất Hạnh.
4. Trường A Hàm - trg 327. Kinh Chuyển luân Thánh vương tu hành.
5. Ðại-việt sử-ký toàn-thư. Ngô Sĩ-Liên.
6. Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1993.
7. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. Đại cương lịch sử Việt Nam, t.1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998.
8. Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.1. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998.
9. Nguyễn Thế Long. Nho học ở Việt Nam – giáo dục và thi cử. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995
10. Phan Đại Doãn (chủ biên). Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Nguyễn Hùng Hậu (2003), Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
12. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tư tưởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
13. Nguyễn Lang (2008), Việt Nam Phật giáo sử luận, t.1,2,3, Nxb Văn học, Hà Nội.
14. Phan Ngọc Liên (2006), Giáo dục và thi cử Việt Nam trước Cách mạng Tháng Tám 1945, Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
15. Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê (1967), Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
16. Trần Nghĩa (1991), “Lý hoặc Luận, bông hoa đầu mùa của Phật giáo Luy Lâu”, Tạp chí Hán Nôm, số 1.
17. Trần Nghĩa (2000), Sưu tầm và khảo luận tác phẩm chữ Hán của người Việt trước thế kỷ X, Nxb Thế giới, Hà Nội.
18. Nhà sử học Trần Văn Giáp, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996.
19. Hà Văn Tấn (2002), Khảo cổ học Việt Nam: Khảo cổ học lịch sử Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
20. LêTắc (1961), An Nam chí lược,Viện Đại học Huế, Huế.
21. Lê Mạnh Thát (1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
22. Lê Mạnh Thát (2003), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Tp. Hồ Chí Minh.
23. Thích Thanh Từ (1973), Thiền sư Việt Nam, Tu viện Chơn Không, Sài Gòn.
24. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Văn tuyển: tư tưởng Việt Nam từ đầu công nguyên đến cuối thời Lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Viện Triết học (2002), Lịch sử tư tưởng Việt Nam - Văn tuyển: tư tưởng Việt Nam từ đầu công nguyên đến cuối thời Lý, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Viện Triết học (1986), Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Hà Nội.
[7]Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám. Sđd., t.1, tr.57.
[8]Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. Đại cương lịch sử Việt Nam, t.1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 60.
[9]Xem: Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh. Đại cương lịch sử Việt Nam, t.1. Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1998, tr. 60.
[11] Trần Văn Giàu. Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam. Nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993, tr.87.
[13]Trần Văn Giàu. Sự phát triển của tư tưởng Việt Nam từ thế kỷ XIX đến Cách mạng tháng Tám. Sđd., t.1, tr.61.
[14]Nguyễn Tài Thư (chủ biên). Lịch sử tư tưởng Việt Nam, t.1. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998, tr.81.
[15]Tác phẩm bằng chữ Hán, trước đây thường được xem là khuyết danh, nhưng theo học giả Lê Mạnh Thát thì có thể là do Thiền sư Kim Sơn soạn, niên soạn là năm Đinh Sửu Khai Hựu (1337). Tham khảo Nghiên cứu về Thiền uyển tập anh của Lê Mạnh Thát, Nxb. TPHCM, 1999.
[17]Nguyễn Lang, tài liệu đã dẫn, trang 138 139.
[18]Tham khảo xem http://sangdaotrongdoi.vn/dac-diem-cua-phat-giao-viet-nam-giai-doan-dau-cong-nguyen-den-the-ky-x-sau-cong-nguyen---tran-tien-dat--a-303.aspx
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét