Đức Tin thuần khiết, đó là một niềm tin sâu thẳm và rộng lớn, do năng lực Bản Nguyện của A Di Đà mang lại cho chúng ta trong khi Ngài cứu độ tất cả chúng sanh.
Đức Tin này được khơi dậy trong “Đại Nguyện xác quyết rằng, nếu có người nào thường xuyên nghĩ nhớ đến Phật, thì chắc chắn được tái sanh nơi cõi Tịnh-độ” (Đại Nguyệnthứ 18), cũng được gọi là: ”Đại Nguyện đoan quyết Tấm Lòng Chân Thành và Đức TinTrong Sáng”. Hay còn gọi là: ”Đại Nguyện khơi dậy lòng tin với ý nguyện thực hiện tái sanh nơi Cõi Sạch”.
Đối với chúng ta, những chúng sanh tầm thường và căn cơ thấp kém, quả thật là vô cùng khó khăn để đạt đến Lòng Tin thuần khiết, lại càng khó khăn hơn nữa để thực hiện cứu cánh tối hậu. Tại sao như thế?
Bởi vì chính chúng ta không biết chuyển hóa công đức tu tập vào chiều hướng tái sanhnơi Tịnh-độ, do đó chúng ta vẫn còn bị rối rắm trong mạng lưới nghi ngờ. Chắc hẳn vì điều này mà Đức Phật phải giúp đỡ chúng ta bằng diệu lực cao thượng của Ngài.
Với chủ ý tạo ra một nhân tố ban đầu, Đức Phật đã dang rộng đôi tay để cứu vớt chúng ta bằng năng lực Đại Từ Đại Bi và Trí Tuệ Vô Hạn, khiến chúng ta gặt hái được Lòng Tin thuần khiết và chân thật. Người nào có được Lòng Tin như vậy thì thật là kiên cố, không gì lay chuyển nổi. Lòng Tin như thế, khiến sự nghiệp hành trì sẽ không biến thành hư ngụy, giả dối.
Hãy nhận thức đúng đắn về điều này: Nhờ vào một Đức Tin như thế, thì mục tiêu tối thượng và vi diệu sẽ dễ dàng đạt được - nhưng, làm thế nào để sở hữu một đức tinchân thật và thuần khiết mà ngay tự thân chúng ta thật khó thủ đắc nổi?
(GHI CHÚ từ bản Pháp-ngữ của dịch giả JEAN ERACLE :
Thật vô cùng khó khăn cho nhân loại trong việc từ bỏ năng lực bản thân để phó thác hoàn toàn vào diệu lực được xác định bởi Bản Nguyện A Di Đà, với lòng tin cậy tuyệt đối.
Nhân loại cũng khó khăn trong việc từ bỏ thành kiến sai lầm, ấy là đòi hỏi những nỗ lực gắt gao, những công phu tu tập lâu dài và phải tích lũy công đức dồi dào, rồi mới đạt được Chứng Ngộ Tối Thượng. Thật ra, sự chứng ngộ tối thượng chỉ là sự vận hànhtức thời của Tâm - Rất giản dị: Không cần tìm kiếm giờ Ngọ vào lúc 14 giờ.
Điều ấy xảy ra rất đơn giản, thậm chí quá mức đơn giản, vì là con người - ai cũng thường nghĩ rằng mình đủ khả năng thực hiện quá nhiều việc, dễ dàng bắt nắm mục đích, rồi thì, khi đụng độ sự việc trước mắt: Tất cả đều bị đảo ngược lại!
Chính vì ham hố tom góp những kết quả cụ thể trên ván bài thế tục, mà những nỗ lực hoặc đôi khi là những kỷ luật nghiêm ngặt có vẻ như là cần thiết - nhưng sự Chứng Ngộ Tối Thượng được tượng trưng bởi cõi Tịnh-độ, thì hoàn toàn vượt lên trên mọi tầm nhìn cạn cợt của thế gian. Đức Tin của Niệm Phật sẽ khiến chúng ta đạt đượcChứng Ngộ Tối Thượng một cách trực tiếp, thẳng tắt).
Kẻ nào nhận lãnh Đức Tin chân thật và thuần khiết, sẽ cảm nghiệm một rung động cao độ của sự hoan lạc, và điều này đã được trình bày trong bản Kinh Sức Sống Không Cùng Tận như sau:
Bất cứ người nào có được Tấm Lòng Chân Thành và Ước Vọng tái sanh nơi Xứ Sở của Thanh Bình và Hạnh Phúc, thì có khả năng giác ngộ bởi trí tuệ và đạt đượcThành Tựu Tối Thượng - và Như Lai nói người ấy được trang bị một tri kiến bao la và thắng diệu.
Như vậy, chúng ta hẳn nhiên sẵn có một phương tiện siêu thắng để bước rakhỏi nghi ngờ và đón nhận Đạo Lý, một phương thức chuẩn xác để thu hoạch nhanh chóng sự hòa điệu hoàn toàn, một tinh túy của vĩnh cửu, và cả sự bất diệt: Ấy là Đức Tin thuần khiết, bao la, và tràn đầy phẩm chất cao thượng.
Chắc chắn rằng, phải tham dự vào sự thực hành, hoặc hòa nhập vào Đức Tin thuần khiết - chẳng còn lại gì trong chúng ta, nếu chúng ta không phát khởi từ Bản ThểThuần Khiết của Phật A Di Đà, được thể hiện qua đại nguyện của Ngài.
Không có gì gọi là ngẫu nhiên, hoặc là do một nguyên cớ khác, mà ta có thể sở hữu một Đức Tin như vậy. Chỉ có vậy thôi!
IV.- CHỨNG NGỘ
Phật A Di Đà cứu độ chúng sanh bằng cách đưa chúng sanh đến Chứng Ngộ, đó là kết quả vi diệu mà Bản Nguyện của Ngài phải thực hiện cho kỳ được mới thôi.
Sự chứng ngộ này được khơi dậy trong “Đại Nguyện khiến mọi người đạt được sự giải thoát cần thiết” (Đại Nguyện thứ 11). Cũng gọi là: “Đại Nguyện làm cho tất cả chúng sanh thực hiện được Đại Niết Bàn”. Hay còn gọi là: “Đại Nguyện thọ ký quả vị giải thoát bao gồm việc được tái sanh nơi Tịnh-độ”.
Sự chứng ngộ này là Thuần Khiết, Chân Thật, Cứu Cánh Tối Hậu, Toàn Giác, là Vô Sanh và Niết Bàn Tối Thượng.
Trong một đoạn nói về sự thực hiện Bản Nguyện, Kinh Sức Sống Không Cùng Tận ghi:
“Tất cả chúng sanh được tái sanh nơi cõi nước Cực Lạc kia, đều ở vào nhóm người tu học thiền định chân chính theo Phật-đạo (chánh định tụ), chẳng thối đọa, chẳng dứt lìa các căn lành, dần dần sẽ được chứng ngộ. Vì sao?
Bởi vì ở cõi Phật kia, không có nhóm người tu học theo tà giáo, dị đoan, tà kiến, phạm tội ngũ nghịch (tà tụ). Và cũng không có nhóm người thiếu quyết định là chân chánh hay tà ngụy (bất định tụ).
Khi diễn tả về nếp sống và hình thức sinh hoạt của các cư dân ở Tịnh-độ, bản Kinh ấy ghi như sau:
“Đó là để phù hợp với cách thức sinh hoạt của các thế giới ở cõi Ta-bà, mà Đức Thích-Ca phải diễn tả nhân dân ở Cực Lạc bằng các khái niệm thông thường như “Trời, Người ở Tịnh-độ…”. Thật ra, mỗi cư dân ở cõi Tịnh-độ đều có khuôn mặt cân đối, tư cách đoan chánh, vượt trội hẳn thân thể loài Trời, loài Người nơi cõi này. Cư dân ở Cực Lạc Tịnh Độ đều có khả năng dị thường, không phải nhân loại mà cũng không phải phi nhân. Tất cả đều có thân thể tự nhiên phi vật chất tựa như hư không, và họ có thể sử dụng rất nhiều hình thái sinh hoạt (gần như vô giới hạn)”
Khi mô tả tình trạng của những người sắp sửa tái sinh nơi cõi Phật, Kinh ghi rằng:
“Không thể chối cãi rằng: Vào lúc lâm chung, người ấy được tái sanh vào Tịnh-độ, phải vượt qua năm cảnh giới xấu ác, và năm cảnh giới xấu ác này tự nhiên khép cửa lại. Rồi y thẳng bước tiến lên, chẳng còn bị bất cứ ai ngăn cản và y được giải thoát, không còn một điều gì có thể trói buộc nổi. Nơi cõi Phật kia, không có sự mâu thuẫn, đối kháng, và ai nấy đều tự nhiên hòa hợp nhau”.
Qua những lời thuyết giảng của Phật và chư vị Tổ sư, chúng ta thấy rõ rằng, chúng talà những hiện hữu tầm thường và tràn đầy tham dục, đồng thời cũng là những đám đông sinh vật dơ bẩn do những hành vi bất thiện, đời đời quay cuồng theo hiện tượng sống chết liên tục - chúng ta phải đón nhận sự thực hành niệm Phật với đức tin, phù hợp ý nguyện A Di Đà sẵn đủ năng lực dẫn dắt chúng ta trở về Cõi Sạch. Song song với việc này, chúng ta sẽ được an lập trong nhóm người tu tập thiền định chân chánh, tương tự như thành tựu địa vị Bồ-tát của Đại-thừa (Bất Thối Chuyển).
An trú trong nhóm người tu tập thiền định chân chánh, thì chắc chắn đạt đến giải thoát. Chắc chắn đạt đến giải thoát ấy là thường xuyên an trú trong hạnh phúc tâm linh. Thường xuyên an trú trong hạnh phúc tâm linh, ấy là Đại Niết Bàn. Đại Niết Bànchính là kết quả phát sanh từ nguyện lực A Di Đà, bằng cách giáo hóa và cải biến tâm linh chúng sanh để cứu độ tất cả.
Ngay trong thân thể vật chất của chúng ta, chúng ta tự phát hiện một thân thể tâm linh, gọi là Pháp-thân. Pháp-thân chẳng phải là một sản phẩm nhân tạo, mà là bản chất cốt lõi của Thành Tựu Viên Mãn. Thành Tựu Viên Mãn chính là Diệt Tận. Diệt Tận chính là chấp nhận thực tại. Chấp nhận thực tại, ấy là thấu suốt được bản thể của mọi sự vật. Thấu suốt được bản thể của mọi sự vật, ấy là an trú trong sự chân thật. An trútrong sự chân thật, ấy là: Chỉ hiện hữu trong tri kiến Như Thị.
Cũng vậy, vấn đề là nguyên nhân hoặc vấn đề là kết quả - đều không đáng đặt ra. Vì không có một cái gì hiện hữu ở trong chúng ta khi nó không được bắt nguồn từ Trái Tim Thuần Khiết của A Di Đà đang thể hiện Bản Nguyện của Ngài. Chính vì nguyên nhân là thuần khiết, tinh sạch, thì cũng như thế, kết quả sẽ được thuần khiết, tinh sạch.
Chỉ có vậy thôi!
* * *
Nam mô A Di Đà Phật
Nam mô A Di Đà Phật
(GHI CHÚ
của Jean Eracle trong bản tiếng Pháp :
Niết-bàn thể hiện Đức Tin của Niệm Phật, là một trạng thái thuần khiết, bởi vì nó không trộn lẫn với bất cứ mảy may nào của vết nhơ dục vọng. Nó là chân thật, bởi vì nó chứa đựng tri kiến Như Thật về các hiện tượng thế gian.
Niết-bàn là cứu cánh tối hậu, bởi vì, từ bên trong nó có thể tiến đến chỗ đồng nhất hóavới mọi sự vật, không còn mảy may phân biệt.
Nó là Toàn Giác, bởi vì thoát khỏi tất cả dây trói của luân hồi, không những không còn tái sanh vào thế giới xấu xa mà ngay cả chẳng còn tái sanh vào cõi Trời hoặc cõi Người, mà nó đã vĩnh viễn chấm dứt sanh tử luân hồi.
Niết-bàn còn có nghĩa là Vô Sanh, bởi vì nó không phải là kết quả của bất cứ phương pháp tu tập nào mang tính cách tự lực.
Niết-bàn là tối thượng, vì nó không còn mục tiêu nào để sanh khởi, và nó cũng biểu lộtất cả chư Phật toàn giác, viên mãn.)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét